++ CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM BLOG CỦA LÊ HIẾU ++ MONG CÁC BẠN ĐÓNG GÓP Ý KIẾN ĐỂ BLOG NGÀY CÀNG HOÀN THIỆN HƠN ++

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Người đầu tiên khai phá tranh Mỹ thuật Sơn mài Việt Nam

WGPSG -- Vẽ tranh là phương tiện để tu tập, hội họa rất gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm con người. Bởi lẽ nghệ thuật vốn dĩ là vô cầu, vì vô cầu nên nó hướng đến một cái gì đó rất cao. Đó là châm ngôn của họa sĩ bậc thầy Nguyễn Gia Trí.


Họa sĩ Nguyễn Gia Trí sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, tại làng Thịnh Hào, Ngã tư Sở,   Hà  Nội, học sinh trường Bưởi rồi vào học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ngành hội họa năm từ 1931-1938. Thầy của ông là họa sĩ người Pháp, Inguimberty. Trong thời gian này ông đã khai phá con đường đưa sơn ta của mỹ nghệ truyền thống, sơn son thiếp vàng trở thành tranh mỹ thuật sơn mài là chất liệu hội họa bản sắc của Việt Nam. Ông qua đời ngày 26 tháng 6 năm 1993.
Một ký giả người Pháp viết về mỹ thuật Việt Nam đương thời đã nhận xét: ”Nguyễn Gia Trí có một giai đoạn ngắn dường như cố gắng làm cho sắc độ của con người, cây cối, thú vật, quần áo, phong cảnh, trong tranh ông đạt được sự chân thực hoàn hảo. Nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ nỗ lực ấy để chỉ chú tâm vào các phương tiện của sơn mài, nhằm nâng sơn mài lên trình độ của sơn dầu.”
Sơn mài khác hẳn sơn dầu ở chỗ mặt tranh bóng, phẳng gần như tuyệt đối. Không gian của nó lặn vào bên trong rất sâu, đó là tính âm của nó cùng với các màu cơ bản (vàng, đỏ son, đen) là các màu ngả về âm, màu của không gian cung đình chùa chiền ngày xưa. Và nhịp của nó là nhịp chậm, từng bước từng bước thầm hình thành từ từ qua từng công đoạn. Công đoạn làm vóc: bó vải, hom, mài xả, lót... cho tới phẳng. Công đoạn vẽ: vẽ, ủ, mài xả, phủ, mài bóng, đánh bóng... cho đến hoàn thành. Chính những đặc điểm ấy đã tạo ra những thách đố đối với những tác giả vẽ tranh sơn mài. Ngược hẳn với sơn dầu thuộc về tính dương đòi hỏi sự truyền cảm trực tiếp, bộc phát vào những nét, mảng, gồ ghề, tạo matiere, hay đường tút của bay, cọ...
Vào năm 1940, họa sĩ Nguyễn Gia Trí được đánh giá ông là người thành công nhất VN. Tác phẩm của ông được tính giá tấc vuông (1dm2) 1 tấc vuông giá bằng 1 lượng vàng và hầu như chỉ có dân Tây thượng lưu mới có khả năng mua tranh của ông. Họ đặt tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo, hai vợ chồng công sứ Cresson xắn quần, nhấc váy lội nước vào làng Thịnh Hào để mua tranh ông. Họ gọi ông là Génie Asiatique (thiên tài Châu Á). Những tác phẩm tiêu biểu của ông như: Chợ Bờ, Bên Hồ Gươm, Chùa Thầy, Đèn Trung thu, Đêm Bồ tùng linh, Khỏa thân, Cảnh thiên thai (đây là bức tranh khỗ lớn được toàn quyền Đông Dương Decoux đặt làm năm 1943), tác phẩm: Thiếu nữ trong vườn (là tác phẩm lớn nhất, gồm 6 tấm ghép lại 12 mét vuông bán cho ông bà Drouin Giám đốc Sở Điện nước Miền Bắc Đông Dương).
Và một tác phẩm độc đáo của ông có đề tài Kitô Giáo là bức Giáng Sinh thực hiện năm 1941 do một phụ nữ quý phái người Pháp đặt tặng cho Dòng Đa Minh, bức tranh gồm 3 tấm ghép lại (có kích thước tổng cộng là 1,3m X 2,37m) điểm độc đáo của tác phẩm này là ông đã Việt hóa hoàn toàn quang cảnh và các nhân vật trong Kinh Thánh, ba vị Thiên Thần đứng trên mây là ba cô gái tân thời duyên dáng trong tà áo dài màu lam, lục và trắng, một trong ba cô gảy đàn tì bà. Thánh Giuse và Mẹ Maria là hai nguời nhà quê áo sồi, quần gụ. Ba người trong bóng tối góc bên phải đầy tính biểu hiện, ba trạng thái tinh thần của chúng sinh: Người thành kính hướng về Chúa Hài Đồng là kẻ có niềm tin; người thản nhiên nhìn ra ngoài là kẻ bàng quan; người nằm nghiêng gối đầu trên cánh tay say ngủ là kẻ còn chìm đắm trong u mê. Và thay cho máng cỏ, chuồng lừa, hang đá, ở đây là cái chuồng trâu với một con trâu trắng. Tác phẩm này đã bị lưu lạc cùng thời cuộc. Năm 1954, trước khi Hà Nội về tay chính phủ kháng chiến, tu viện Têrêsa đã đưa nó sang Dòng chính ở Lyon. Các vị tu sĩ ở tu viện Corbusier chắc là không hiểu giá trị của tấm tranh, nên để ở dưới sàn nhà nguyện, quay mặt ra sau làm bảng viết. Năm 1955 linh mục Pineau của Dòng Đa Minh được cử sang Sài Gòn, biết việc ấy đã xin đưa bức tranh trở lại VN. Đến cuối năm 1959 đầu 1960 mới được đưa về Sài Gòn, và từ đó nó nằm ở nhà nguyện Dòng Đaminh Mai Khôi đường Tú Xương, Q.3 cho đến nay. Linh mục Thiện Cẩm, Bề trên Dòng Đaminh cho biết, trước đây có một vị Khâm sứ Tòa Thánh Vatican ngỏ ý muốn mua tác phẩm độc đáo này, với giá của một căn biệt thự nhưng Nhà Dòng không bán.
Giai đoạn thứ hai của sự nghiệp họa sĩ Nguyễn Gia Trí gắn bó với Sài Gòn-TPHCM từ năm 1954-1993, song chủ yếu là 20 năm từ 1954-1975 là thời kỳ ông có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để sáng tác và hoàn thiện nghệ thuật sơn mài ở đỉnh cao. Những tác phẩm quan trọng nhất của ông sau năm 1954 là bộ lịch sử Việt Nam gồm các bức “Địa linh hoán tượng, Hai bà Trưng, Trận Bạch Đằng, Ba Vua (1960) và bộ tranh cho thư viện Quốc Gia gồm ba bức Hoài niệm xứ Bắc,Trừu Tượng, Múa dưới Trăng (1968-1969) Vườn Xuân (1970) và tác phẩm cuối cùng Vườn Xuân Trung Nam Bắc, thực hiện kéo dài trong nhiều năm. Tác phẩm này do bác sĩ Tín đặt hàng (người sản xuất dầu gió khuynh diệp nổi tiếng ở miền Nam) bức tranh 9 tấm, kích thước 2m X 5,4m nói lên tâm tư nguyện vọng của ông vào lúc cuối đời. Sau năm 1975 người đặt tranh đi định cư ở nước ngoài, trong điều kiện khó khăn về kinh tế ông vẫn quyết tâm hoàn thành tác phẩm. Đến năm 1990 thì Chủ tịch UBND TPHCM, ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp quyết định mua tác phẩm này với giá 600 triệu đồng VN tương đương 100.000 Đôla, là một kỷ lục về giá tranh ở Việt Nam.
Họa sĩ cùng thời với ông là Tô Ngọc Vân nhận xét: “Sức truyền cảm ma quái của sơn ta, dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí thì những màu hồng nhạt biến hóa thành nhửng sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành vật quí, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên, như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn mài như yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét quệt mạnh, đập tung, cào cấu. Trong những sắc màu ấy như ẩn như hiện một chút gì huyền ảo, đắm say nồng nàn, còn run rẩy trong bóng tối hòa với một sức sống còn bế tắc, một linh hồn kiên quyết, đam mê đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ngoài ánh sáng.”
Thật vậy, dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí, vỏ trứng từ một vật cứng cũng trở thành mềm mại, vì tạo ra đủ sắc độ của màu xám, vàng, nâu, trắng. Lúc thì như thứ bình men rạng cổ kính, lúc toát lên trên nền đen như được soi rọi bằng những ánh đuốc đêm hoa đăng, lúc đông đặc như cẩm thạch, lúc kết tinh như kim cương, lúc mỏng mờ như cơn mưa phùn, lúc rờn rợn bóng tối mờ ảo trên tường rêu của Liêu trai chí dị.
Tác phẩm sơn mài của họa sĩ Nguyễn Gia Trí quả thật có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm tâm linh, vì đối với ông sáng tạo nghệ thuật chỉ là phương tiện để tu tập, ông thường nói: “Tôi tìm tòi và sáng tạo với tất cả linh tính, không phải sáng tạo bằng mắt, bằng tay, mà gần như người mù sờ soạng, mò mẫm trong đêm tối để tìm cái đẹp. Như người mẹ mang thai, không thể bắt con mình là trai hay gái, đẹp hay xấu, mà cầu mong ở chính con người mình, ở chính phúc đức, và chính thể chất của mình sẽ sinh ra đứa con lành lặn, đẹp đẽ."
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, một đời tìm tòi sáng tạo đã đưa mỹ thuật sơn mài lên ngang hàng với hội họa hiện đại. Được minh chứng bằng những kiệt tác đi vào lòng người, và bất tử với thời gian, qua phong cách hòa quyện bản sắc dân tộc dân gian với trường phái sơn dầu hiện đại, bằng cái tâm vô cầu và bản chất dấn thân, phó thác cho nghệ thuật đến tận cùng, ông xứng đáng là một “Minh Sư” có công dẫn dắt chúng ta đến đại dương mênh mông của cái Đẹp.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

Lịch Sử Hội Họa Hiện Đại Và Hậu Hiện Đại Việt

WGPSG (11.10.2009) -- Hoạ sĩ Lê Hiếu đã tìm hiểu và có những nhận định của ông về Hội hoạ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại tại Việt Nam. Đây sẽ là một tài liệu hữu ích và thú vị cho những người yêu mến và quan tâm đến nền Hội hoạ và Mỹ thuật của quê hương Việt Nam thân yêu.

I. Hội hoạ Hiện Đại
Hội họa Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng hội hoạ trước đó?
Điểm khác biệt là ở quan niệm về năng khiếu. Năng khiếu là yếu tố cần thiết của người hoạ sĩ, nhưng trong Hội họa Hiện Đại, người ta khẳng định rằng: năng khiếu, một trong những yếu tố giúp cho hoạ sĩ có được những tác phẩm cuốn hút, lại là không cần thiết lắm! Bởi vì sản phẩm của hội hoạ không phải chỉ là những cái gì đẹp, không chỉ là để thỏa mãn một thị hiếu, mà cốt yếu nó còn đi tìm một sự đồng cảm và chia sẻ. Nói chung, nó phải truyền thông được một thông điệp với công thức:
Tác phẩm lớn = Tính sâu thẳm + tính phức tạp + tính nguyên sơ.
Có thể nói, khuynh hướng Hiện Đại này đã đi vào môi trường Hội hoạ của Việt Nam kể từ ngày triển lãm đầu tiên vào năm 1929 tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Cách đây 85 năm, ngày 7/10/1924, tại Hà Nội, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin ký sắc lệnh cho thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, với tên tiếng Pháp là École superieure des Beaux-Arts de L’Indochine. Người đảm nhiệm kiêm hiệu trưởng là họa sĩ người Pháp: Victor Tardieu.
Trường hoạt động trong thời gian 20 năm (1925-1945), đã trao bằng tốt nghiệp cho 128 sinh viên họa sĩ, trong đó có các ngôi sao sáng của nền mỹ thuật Việt Nam như: Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Nguyển Gia Trí, Bùi Xuân Phái, v.v...
Xin Click lên hình để coi các hình trong album này
Và cuộc triển lãm đầu tiên mang tính lịch sử ở VN thời bấy giờ, được khai mạc tại trường Mỹ Thuật Đông Dương, số 102 phố Reinach, Hà Nội, vào ngày thứ sáu 15/11/1929 (cách đây 80 năm), đã có tác động đáng kể đến đời sống và công chúng đương thời. Lúc ấy, tranh lụa và tranh sơn mài chưa ra đời. Vào thời điểm đó, tờ L’Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) đã trang trọng chạy “tít” trên bìa 1: Một trường phái hội họa và điêu khắc mới “Trường phái Việt Nam”. Trong tờ báo đó, ký giả Yvonne Schultz viết: “Cái trường phái hội họa này, ngay bây giờ người ta có thể gọi là trường phái Việt Nam, sẽ làm giàu cho Viễn Đông bằng những tác phẩm thích ứng với sự nhạy cảm của người Việt Nam thế kỷ 20. Về mặt lịch sử, quá trình phát triển của hội họa sơn dầu VN khác xa các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Các họa sĩ VN quả thực đã tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây, nhất là kỹ thuật sơn dầu trực tiếp qua các họa sĩ Pháp (Victor Tardieu và Joseph Inguimberty) như một phương tiện có tính phổ quát, để xây dựng cho mình một nền hội họa ĐẦU TIÊN mang tính chất quốc gia, chuyên nghiệp, có tác giả, một nền hội họa bác học theo tinh thần của thời đại mới, mà vẫn đảm bảo bám rễ sâu vào nguồn mạch văn hóa mỹ thuật truyền thống”.
A. Giai đoạn đầu (1925-1945)
Vào thời kỳ Đông Dương, nền hội họa sơn dầu Việt Nam đã ít nhiều có những sắc thái riêng biệt, với những nội dung hết sức đặc biệt, được phản ánh qua những tác phẩm có phong độ bậc thầy như “Thiếu Nữ bên Hoa Huệ” của Tô Ngọc Vân, “Chơi Ô Ăn Quan” của Nguyễn Phan Chánh, “Vườn Xuân Bắc Nam” của Nguyễn Gia Trí vv…Các họa sĩ VN đã đi từ trường phái Cổ điển, qua Hiện thực, và phần nào tiếp cận các trường phái Hiện Đại như: Ấn tượng...
B. Giai đoạn từ 1945-1975
Miền Bắc bước vào thời kỳ kháng chiến, nền hội họa sơn dầu VN đã chuyển hóa các thành tựu của thời kỳ trước sang khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số còn lại di cư vào Nam, sát nhập với trường Cao Đăng Mỹ Thuật Gia Định, nay là trường Đại Học Mỹ Thuật Tp HCM, số 5 Phan Đăng Lưu, Q Bình Thạnh, Tp. HCM.
Thời kỳ này ở miền Nam, tức Sài Gòn cũ, các họa sĩ nổi tiếng các nơi tổ chức triển lãm liên tục, ở Ty Văn Hóa (đường Tự Do), ở Hội Việt Mỹ, với các họa sĩ cổ thụ như Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Nguyễn Siên, Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, Nguyễn Thanh Thu. Đến thập niên 60 thành lập thêm nhóm họa sĩ trẻ Sài Gòn, gồm có các họa sĩ Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Hồ Hữu Thủ,Trịnh Cung, vv...
Đây là thời gian cực thịnh của các trường phái Hiện Đại: Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng v.v... Ở thời vàng son này, các họa sĩ rất được công chúng trọng thị và mến yêu, nhất là tầng lớp trung lưu trí thức, bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư,vv…Sau mỗi tháng lãnh lương, họ thường trích ra một khoản tiền để sưu tập tranh, tượng.
Hội hoạ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại VN
"Trừu tượng", sơn dầu, Tạ TỵTranh hậu hiện đại của Lê Hiếu Tranh hậu hiện đại của Lê Hiếu
C. Giai đoạn từ 1975-1990
Sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, Sài Gòn-Tp HCM có lực lượng họa sĩ xuất thân từ các nguồn đào tạo hết sức khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp, Mỹ, Ý, Anh, Nhật…
Riêng miền Nam đang liên tục tiến hành cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới mà dân Sài Gòn và giới văn nghệ sĩ tại chỗ còn quá xa lạ. Vì thế mà rất nhiều người cầm cọ thời bấy giờ, bị đi cải tạo, hoặc bỏ vẽ. Số còn lại trở nên rụt rè trước hoàn cảnh xã hội thay đổi. Trong suốt thời gian này hầu như không có cuộc triển lãm tranh tượng của cá nhân, hay tổ chức tư nhân nào, mà chỉ có những cuộc triển lãm chung do Hội Mỹ thuật Thành Phố, hoặc Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức cho các họa sĩ vẽ theo chủ đề, theo định kỳ mỗi năm, hay 5 năm một lần.
II. Hội họa Hậu Hiện Đại
Giai đoạn đổi mới (1990-2009)
Bắt đầu từ cuộc trao đổi văn hóa Việt Mỹ theo chương trình cuộc chiến nhìn từ hai phía của Hiệp Hội Indochina Arts Partnership do họa sĩ người Mỹ David Thomas khởi xướng. Các họa sĩ Mỹ, và hoạ sĩ các nước vào Việt Nam triển lãm. Ngược lại, các họa sĩ Việt Nam sang Mỹ và các nước tiên tiến trên thế giới triển lãm giao lưu.
Thời kỳ này là thời kinh tế thị trường mở cửa, Việt Nam gia nhập WTO, giới họa sĩ tiếp cận nhiều thông tin, nhất là giới họa sĩ trẻ, đươc dịp khẳng định mình, qua các trường phái Hậu Hiện Đại như Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt vv... Cả ba miền đất nước: Huế, Sài Gòn, Hà Nội, bùng nổ triển lãm tranh, tượng, cá nhân, nhóm, câu lạc bộ, Tòa soạn báo chí, Chùa, Nhà Thờ, Hội Mỹ Thuật các nơi… Các galleries mọc lên như nấm, nhưng chủ yếu là để kinh doanh tranh, sao chép của các tác giả nổi tiếng nước ngoài. Tranh sáng tác ít đươc công chúng hưởng ứng, nhất là tranh sáng tác theo chủ đề Tôn Giáo.
Như vậy từ năm 1990, trong môi trường Hội hoạ Việt Nam đã xuất hiện trường phái Hậu Hiện Đại (Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt, v.v...) Nhưng trường phái Hậu Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng Hội họa Hiện Đại trước nó?
Khoa học, kỹ thuật hiện đại ngày nay đẩy con người lên đỉnh cao chói lọi. Nhưng những con người thành đạt trong thời đại này lại khó mở lòng ra hơn xưa. Họ đã trải qua thời kỳ đau khổ, họ không còn niềm tin vào cuộc sống và xã hội đương thời, và vì vậy họ trở nên cảnh giác. Cái đẹp của hội họa, có lẽ vì vậy mà khó tiếp thu hơn.
Chính giai cấp vừa mới giàu sang và thành đạt đó đã bẻ vỡ thế giới nhận thức và cảm xúc ra nhiều mặt, nhiều thời điểm, rồi sắp xếp lại theo cảm quan của cá nhân với công thức:
Tác phẩm lớn = Tính sâu thẳm + tính tự do + tính cá nhân.
Như vậy Hội họa Hiện đại và Hội họa Hậu Hiện đại giống nhau ở chỗ đều nhấn mạnh đến tính sâu thẳm, và khác nhau ờ chỗ:
- Hội họa Hiện đại nhấn mạnh hơn về: tính phức tạp và tính nguyên sơ
- Hội họa Hậu Hiện đại lại nhấn mạnh đặc biệt về: tính tự do và tính cá nhân.
Điểm đặc biệt khác của Hội hoạ Hậu Hiện đại là: người xem "cùng sáng tác" với tác giả. Khi ngắm nghía bức tranh, vào từng thời điểm khác nhau, họ khám phá ra những góc cạnh mới, những ý nghĩa mới, và đặt tên mới cho bức tranh. Bức tranh là một tác phẩm bỏ ngỏ...
III. Nhận định
Chưa bao giờ nền nghệ thuật thế giới đứng trước những thách thức đáng kể như ngày hôm nay, bởi lẽ con người đã mất niềm tin vào cuộc sống, mất định hướng, nên dễ trở nên tha hóa. Từ đó, tư duy về cái Đẹp phát sinh nhiều quan niệm mới, nhiều khi đi ngược lại với nền mỹ học cổ truyền. Mà tự bản chất, khả năng con người thì chưa đủ sức chân nhận giá trị. Ngôn ngữ và tư tưởng giữa các thế hệ có khoảng cách ngày càng xa, khiến cho sự kết nối, chia sẻ, yêu thương trở nên cực kỳ khó khăn. Những người trẻ ở các nước đang phát triển lại càng thêm bối rối, mất phương hướng.
Hiện nay, bóng đêm của trường phái Hậu Hiện Đại ngày càng bao trùm khăp nơi trên thế giới. Không giống như khoa học, kỹ thuật, luôn luôn có mẫu số chung, trong môi trường hội họa, không ai giống ai, mỗi người mỗi phong cách. Hiện Đại hay Hậu Hiện Đai của mỗi người đều xuất phát tự bên trong nội tâm sâu thẳm, và đều thể hiện một mỹ cảm nhất định về cái Đẹp.Thêm vào đó, lối giáo dục ngày nay là lối giáo duc trực quan: làm ngay, thấy ngay, cộng với sự nhiễu loạn thông tin từ internet, cũng là một phần cản trở sự tiếp thu theo kiểu cũ của trường phái Hiện Đại.
Hậu Hiện Đại đã bẻ vỡ thế giới nhận thức và cảm xúc ra nhiều mặt, và đưa đến hai kết quả khác nhau: tích cực và tiêu cực:
- Ở mặt tiêu cực, các họa sĩ mong đợi một không gian để thỏa mãn cái Tôi, nhiều hơn là đi tìm những giá trị mới hoàn thiện hơn. Bởi họ đi từ một nền tảng nổi loạn và hoang mang, dẫn đến kết quả họ không biết họ là ai! “Tôi là ai, tôi là ai, mà còn trần gian thế? Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này?” (ca khúc Trịnh Công Sơn)
- Ở mặt tích cực, có những họa sĩ đặt niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa, lúc đó tâm tưởng của họ có sự bình an. Khởi đầu, thế giới nhận thức của họ bị bẻ vỡ, nhưng đến khi sắp đặt lại, họ đã kịp dẫn đưa cái Tôi hoang mang của họ bước theo tiếng nói của yêu thương.
Sự thực là khi tiến bước trên con đường mỹ thuật, người hoạ sĩ từng bước rũ bỏ những e dè, ngăn cản, mặc cảm, để bộc lộ chính mình, và trở thành chính mình trong khi vẽ tranh. Càng biết nhiều, hiểu nhiều, tiếp xúc nhiều, họ càng thông cảm cho người khác, càng lớn lên, để biết pha màu theo cung cách “cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao ban”. Lúc đó họ không cần cố gắng chứng minh mình đang theo trường phái Hiện Đại hay Hậu Hiện Đại, không cần đẩy cá tính của mình lên đến mức dị biệt, cứ để tự nó “hữu xạ tự thiên hương.”
Đọc thêm!