++ CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM BLOG CỦA LÊ HIẾU ++ MONG CÁC BẠN ĐÓNG GÓP Ý KIẾN ĐỂ BLOG NGÀY CÀNG HOÀN THIỆN HƠN ++

Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2009

Họa sĩ Hồ Thị Kim Quỳ: Vẻ Đẹp của Cuộc Sống

WGPSG -- Để cảm xúc gắn liền với tác phẩm, tôi thiết nghĩ người nghệ sĩ cần phải sống thật gần với thiên nhiên, với con người và cũng cần có cái tâm thật thanh thản, dành thời gian chiêm nghiệm vẻ đẹp của cuộc sống. Cuộc đời và tác phẩm cũng sẽ thăng hoa từ cuộc sống ấy, cuộc đời ấy … đó là tâm sự của họa sĩ, nhà giáo, Hồ Thị Kim Quỳ.

Họa sĩ Kim Quỳ sinh ngày 30/9/1950 tại Huế, hội viên Hội Mỹ thuật VN, hội viên Hội Mỹ thuật Tp. HCM, hội viên danh dự câu lạc bộ Nữ Họa sĩ Kobalt, Tp. Hamburg CHLB Đức, ủy viên Ban Mỹ Thuật Đa Minh Ba Chuông. Năm 1972 chị tốt nghiệp cử nhân khoa Hội họa, Mỹ thuật Tạo hình hệ chính quy trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, và tham gia triển lãm tranh liên tục cùng với các họa sĩ tại Sài Gòn, ở các trung tâm Hội Việt Mỹ, Phủ Quốc Vụ Khanh Sài Gòn, nhà Mỹ Thuật Sài Gòn, gây được nhiều cảm tình của công chúng thời bấy giờ.



Năm 1976-1978 sau khi thống nhất đất nước, chị vẫn tiếp tục sáng tác, triển lãm tại Hội Mỹ thuật VN và Hội Mỹ thuật Tp. HCM.
Năm 1996 chị được mời tham dự triển lãm “cuộc chiến nhìn từ hai phía” của tổ chức Indochina Art Partnership USA, chị đã thành lập xưởng vẽ và Gallery giới thiệu tranh cá nhân tại Virginia Hoa Kỳ.
Đến năm 1997 chị được bầu làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ Nữ Họa sĩ Tp. HCM nhiệm kỳ 1997-2000, cũng trong thời gian này vào tháng 3/1999 chị được mời tham gia triển lãm và báo cáo khoa học “sơn mài Việt Nam từ cổ truyền đến hiện đại,” tại hội thảo chuyên đề phụ nữ của 4 nước Châu Á tại Manila, Philippines.
Đến tháng 3/2000 chị tham gia triển lãm Nữ Họa sĩ Việt Nam và CHLB Đức tại Hamburg, Đức.
Năm 2000-2005 là thời gian sống và sáng tác ở Virginia Hoa Kỳ. Với bản chất là người con xứ Huế, yêu quê hương như yêu đồng lúa chín, luôn nhớ những kỷ niệm đã qua cộng với hoài niệm của một người con xa xứ, trong chị luôn có cảm giác nhớ mùi hương rơm rạ, mùi cỏ cây đồng nội, mùi lúa non chưa đến ngày gặt ở những cánh đồng xanh ngắt và nhất là nhớ hoa dại mọc ven đường, phảng phất trong gió mùi hương con gái… Thế là chị quyết định trở về nước tham gia giảng dạy tại Đại học Tôn Đức Thắng và Kiến Trúc Tp. HCM
Năm 2006, chị viết báo cáo khoa học “Làm thế nào để nâng cao tính chủ động và sáng tạo của sinh viên ngành mỹ thuật ở các trường đại học,” với ước mơ cung cấp hành trang kiến thức, giúp sinh viên nước nhà thành công trên con đường học vấn. Nhưng ước mơ cũng chỉ là mơ ước vì theo số liệu của ngành Giáo dục Tp. thống kê trong 10 năm: 1999-2009, có hơn 278 trường Đại học, Cao đẳng mới thành lập, thời kỳ này Đại học mọc lên như nấm, dồn dập ra đời, nên chưa chuẩn bị được đội ngũ giảng viên chất lượng. Các trường được nâng cấp ồ ạt bất chấp tiêu chuẩn, cơ sở vật chất thiếu tính chuyên nghiệp, mỗi năm đều có số lượng sinh viên ra trường và số lượng sinh viên nhập học. Các trường chỉ chạy theo thành tích và lợi nhuận, nên dẫn đến kết quả là sinh viên sau khi ra trường, con nhà khá giả thì cha mẹ cho tiền học tiếp lên cao học, hoặc về phụ giúp kinh doanh với gia đình, số còn lại đa số là thất nghiệp, hoặc phải làm một nghề tay trái nào đó để đổi lấy miếng cơm, manh áo.
Muốn nâng cao tính chủ động và sáng tạo thì phải có phòng ốc chuyên nghiệp, trưng bày các bài tập của sinh viên và các tác phẩm của các thầy, cô để các em quan sát, so sánh, học hỏi, sáng tạo giữa đời thường, nhưng trường đại học thì lớp còn thiếu, nói chi đến không gian trưng bày tranh tượng. Nhiều ước mơ và nỗi niềm của chị cứ lặng lẽ trải dài theo tháng ngày dần trôi… Thời gian này, nghệ thuật của chị chín mùi ở chiều sâu tâm linh, hướng nỗi niềm của mình về Đấng Tối Cao. Được thể hiện qua các tác phẩm sơn dầu: Niềm tin Thiên Chúa, Hành Hương về Đất Thánh, Lời Nguyện Cầu, Cõi Vĩnh Hằng… Tham gia triển lãm nhiều lần tại giáo xứ Đa Minh Ba Chuông (Mỹ thuật Tôn giáo và Nhân văn 1, 2), tại Trung tâm Văn hóa Công giáo (Dấu ấn Đức tin 1, 2). Hiện nay chị là ủy viên Ban Mỹ thuật Đa Minh Ba Chuông.
Hơn nữa Kim Quỳ còn là tên của một loài hoa Cúc Quỳ ở VN thường nở vào mùa đông, vàng rực cả triền đồi và thảo nguyên, loại cây này có thể coi như loại cây báo hiệu sự chuyển mùa, khi hoa Quỳ nở có nghĩa là mùa xuân đã đến rất gần… thật gần.
Nhân dịp năm Thánh Phaolô (28/6/2006-29/6/2009) tại giáo xứ Đa Minh Ba Chuông, Họa sĩ Kim Quỳ được sự động viên và khích lệ của cha An Phong Vũ Đức Trung, Giám đốc Trung tâm, chị đã tổ chức triển lãm tranh, chủ đề Thầy và Trò, ngày 14/6/2009, giới thiệu bài tập của 90 sinh viên và tác phẩm của các thầy Trương Văn Ý (nguyên Hiệu trưởng Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn), thầy Trần Châu, thầy Nguyễn Đắc, nhằm nhắc lại hoa trái của Thầy Giêsu để lại cho trò Phaolô với niềm tin: Trò là sự tiếp nối của Thầy, đã gây được nhiều tiếng vang lớn. Và nhất là các em sinh viên được dịp chủ động và tha hồ sáng tạo nghệ thuật tình yêu Thiên Chúa trong một gallery ấm cúng, rộng rãi, sang trọng, trí thức, bậc nhất tại Tp. HCM hiện nay.
Qua lời tâm sự của em Minh Hưng, sinh viên tham dự triển lãm tranh Thầy và Trò, “Không có niềm tin vào Thiên Chúa và sự hướng dẫn của thầy cô, thì chúng em không có được sự thành công của triển lãm Thầy và Trò, mà trong đó, người đầu tiên chúng em tri ân là cô Kim Quỳ, người đã đóng góp một công sức lớn trong việc tạo ra một sân chơi mới cho sinh viên cũng như sự thành công của sân chơi đó. Mỗi chúng em đều có trong mình một ngọn lửa yêu nghệ thuật, đam mê nghệ thuật, bởi vì mỗi người chúng em ai cũng thích cái đẹp, nhưng quan trọng là có người thắp lên ngọn lửa đó hay không. Cô là người đã được Chúa Thánh Thần soi sáng, thắp lên ngọn lửa: ngọn lửa yêu thương, ngọn lửa hy sinh, thắp lên niềm tin cho mỗi chúng ta bước đi trên con đường nghệ thuật… Không phải chờ đến ngày nhà giáo VN 20/11 mới gửi lời tri ân tới cô Kim Quỳ, mà ở trong tâm hồn em, ngày nào cũng nhớ đến người cha, người mẹ thứ hai, đã dạy dỗ chúng em biết quên mình, vì chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân.”
Đọc thêm!

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2009

Họa sĩ Lê Văn Đệ: người đầu tiên khám phá tranh lụa truyền thống Việt Nam

WGPSG -- "Trong cuộc đời và trong cả hội họa cũng vậy, rất có thể anh bỏ qua không cần Thượng Đế, nhưng anh, kẻ khổ đau, anh không thể bỏ qua không cần tới một điều cao hơn: chính là đời anh, quyền năng sáng tạo." Đó là câu nói của danh họa Vincent VanGogh mà Giáo sư họa sĩ Lê văn Đệ thường nói với các học sinh trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định ngày xưa.


Họa sĩ Lê văn Đệ (24/8/1906-16/3/1966) sinh tại Mỏ Cày, Bến Tre, trong một gia đình nhà nho. Thân sinh là cụ Lê Quang Hòe. Gia đình có 13 người con, Lê văn Đệ là con thứ mười nên ở nhà có tên là Dix (Mười). Học trung học tại trường Taberd Sài Gòn rồi thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội, năm 1925. Ông học với giáo sư họa sĩ người Pháp Victor Tardieu và Joseph Inguivaberty. Các bạn cùng thời với ông sau này đều nổi tiếng, như họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn… Sau 5 năm theo học, ông đậu thủ khoa năm 1930, khóa I Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, và được học bổng du học Pháp.
Thời gian này ông đã tạo được điểm son trong lịch sử mỹ thuật VN: Hội Nghệ sĩ Quốc gia Pháp, tại Paris ngày 1/5/1932 tổ chức cuộc triển lãm tranh, tượng; ông đoạt giải nhì với ba tác phẩm Mụ Thầy Bói, Bến Ga Monparnass, và Người Đàn Bà Cài Đầu.
Trong những năm học tại Paris, tác phẩm của ông luôn gây được sự chú ý tại thủ đô Ánh Sáng. Với thành tích rực rỡ này ông được nhận thêm học bổng tu nghiệp tại Ý và Hy Lạp.

Theo Đông Dương Tuần báo, vào năm 1934 , có hơn 40 tờ báo Pháp đề cập đến tác phẩm của ông. Ông được Bộ Văn hóa Pháp chọn mua bức tranh Trong Gia Đình, và được treo trang trọng ở Bảo tàng Mỹ thuật Luxembourg.

Năm 1936, Tổ chức Báo chí Công giáo bảo trợ tại Rôma mở cuộc triển lãm tranh, tượng, quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của 30 quốc gia trên thế giới: tác phẩm của ông đoạt giải nhất.

Sau đó ông được mời phụ trách trang trí trong điện VATICAN và được ban thưởng Giáo Hoàng Bội Tinh, đây là một vinh dự cho dân tộc Việt Nam. Công trình do ông chỉ đạo thực hiện đã được báo chí Ý, Pháp, và nhiều nước trên thế giới đánh giá cao về chất lượng, tuy số lượng không nhiều. Đa phần tác phẩm của ông nằm trong các sưu tập ở bảo tàng Pháp, Ý, và một số tranh chân dung các chức sắc trong tòa Thánh Vatican như: chân dung Đức Giáo Hoàng PIO XI, chân dung Đức Hồng Y Verdier, chân dung các thiếu nữ Ý, Pháp và một số tranh tôn giáo: Đức Mẹ Từ Bi, thánh Madeleine dưới chân Thập Giá (bức này được Viện bảo tàng Mỹ thuật giáo sĩ thừa sai Vatican mua), Mẹ và Con (Viện bảo tàng Mỹ thuật Aix Lachapelle đặt mua)

Năm 1936, ông được Đức cha Celso-Costantins, Thư ký Bộ Truyền giáo Vatican rửa tội với tên thánh Celso-Léon Lê văn Đệ. Với bản chất là người dân Nam Bộ, mộc mạc, bình dị, thích cái đẹp thôn dã của quê hương, nên ông quyết định trở về nước sau gần 10 năm học tập, nghiên cứu, sáng tác và nổi danh ở Châu Âu.

Thời gian về nước là giai đoạn ông hoàn thiện kỹ thuật vẽ tranh lụa, phối hợp nền hội họa Thủy Mặc nghìn năm của Trung Quốc, với bố cục và tỷ lệ vàng của các họa sĩ thời phục hưng ở Châu Âu, sáng tạo ra nền hội họa tranh lụa truyền thống VN. Bản chất lụa Việt Nam, là loại lụa tơ tằm, có gân, thớ lụa không mịn và đều như lụa Trung Quốc. Phần lớn họa sĩ miền Bắc dùng lụa Hà Đông, ở miền Nam dùng lụa Tư Cua ở Gia Định. Trước lúc vẽ, lụa được căng lên khung gỗ, và tẩy bằng chanh hoặc phèn chua đề phòng dán, mọt gặm nhấm.

Khi vẽ thì không vẽ theo lối công bút của Trung Quốc mà là nhuộm màu từng bước, mỗi lần vẽ xong phải rửa cho cặn màu trôi đi, sau đó lại nhuộm thêm cho đến khi thấy độ màu ổn định mới thôi. Một bức tranh lụa đẹp, ngoài nội dung, bố cục, màu sắc, phải thể hiện được sự óng ả của thớ lụa, chất lụa. Nếu vẽ rửa nhiều nước thì độ mướt của chất lụa sẽ giảm, chà cọ nhiều tơ lụa sẽ bị xù lông, hoặc mặt lụa bị lì, lụa không còn độ bám của màu nữa, lúc đó người vẽ phải thay lụa mới. Màu trắng trong tranh thường được chừa lại bằng nền lụa, ngoài nét ra, các mảng thường được dùng cọ bản để đánh màu cho tan đều, chuyển độ trung gian giữa nét và khối hòa quyện vào nhau. Chính vì thế, tranh của ông thường óng ả, mềm mại, thớ lụa rõ ràng, bố cục mạch lạc, quý phái, dễ tạo nên cảm giác có một lớp nước rất mỏng, trong trẻo, dịu dàng, đưa người thưởng ngoạn quên đi phần nào cái đau khổ của phận người, của một kiếp phù sinh.

Năm 1942, ông quy tụ các họa sĩ tài danh lúc bấy giờ, lập ra nhóm Nghệ thuật An Nam, tổ chức nhiều triển lãm gây tiếng vang lớn, với những tác phẩm đi vào lòng người như: bức tranh lụa Rèm Thưa, Mẫu Tử, … tại Hội chợ Triển lãm Mỹ thuật Quốc tế lần I ở vườn Tao Đàn Sài Gòn; bức Nắng Hè là một trong những bức tranh lụa nổi tiếng nhất vào những năm cuối đời ông; năm 1959 Sở Văn hóa Thông tin Hoa Kỳ đã in trang nhất, bìa lịch tết để tặng bạn đọc.

Tranh lụa Lê Văn ĐệĐến năm 1954, Hiệp định Genève chia đôi đất nước, một số giáo sư và sinh viên Mỹ thuật di cư vào Nam. Chính phủ thời bấy giờ quyết định thành lập trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định, và cử họa sĩ Lê văn Đệ làm Hiệu trưởng đầu tiên của trường. Những sinh viên khóa đầu tiên do vị thầy khả kính Lê văn Đệ hướng dẫn đều đã thành danh như họa sĩ Hiếu Đệ, Trương Thị Thịnh, Vũ Thị Ngà, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thanh Thu (điêu khắc gia), Lê Thành Nhơn (ĐKG), Đỗ Quang Em, Nguyễn Trung, Hồ Hữu Thủ, Nguyễn Lâm … và nhiều họa sĩ nổi tiếng khác.Giáo sư họa sĩ Lê Văn Đệ là Giám đốc của trường, nhưng ông là một con người bình dị, thích cái đẹp thôn dã, giàu lòng vị tha, và đặc biệt rất thương học trò; nên ông chọn dạy lớp căn bản cho các tân sinh viên. Đối với học sinh, ông là người nổi tiếng sửa bài hay nhất, chỉ cần một nét quệt ngón tay của thầy vào bài là sẽ thấy ngay chỗ sai, nét than bay bớt đi, nét nhấn khối đậm thêm, bố cục mới được chắc, đậm nhạt, âm dương giao hòa.Từ thưở ấu thơ cắp sách đến trường, chúng ta đã được thầy cô dạy dỗ những bài học đạo đức đầu tiên, giúp chúng ta nên người như hôm nay; là một người trò chúng ta không thể nào quên truyền thống “không thầy đố mày làm nên” mà ông cha ta đã truyền dạy từ bao đời nay. Chính thầy cô đã chắp cánh cho những ước mơ của chúng ta bay cao, cung cấp hành trang, kiến thức cho chúng ta vào đời, giúp chúng ta thành công trên con đường học vấn. Thế nhưng sau khi ra đời có mấy ai còn nhớ về thầy cô giáo cũ của mình?Tháng 11 là tháng cầu cho các linh hồn, và ngày nhà giáo VN 20/11 sắp đến; đây cũng là dịp chúng ta và các đồng nghiệp thắp lên một nén hương lòng, tưởng nhớ đến một họa sư bậc thầy có công đặt nền móng vững chắc cho nền Nghệ thuật Hiện đại Việt Nam.
Đọc thêm!

Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009

Người đầu tiên khai phá tranh Mỹ thuật Sơn mài Việt Nam

WGPSG -- Vẽ tranh là phương tiện để tu tập, hội họa rất gần với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm con người. Bởi lẽ nghệ thuật vốn dĩ là vô cầu, vì vô cầu nên nó hướng đến một cái gì đó rất cao. Đó là châm ngôn của họa sĩ bậc thầy Nguyễn Gia Trí.


Họa sĩ Nguyễn Gia Trí sinh ngày 6 tháng 10 năm 1912, tại làng Thịnh Hào, Ngã tư Sở,   Hà  Nội, học sinh trường Bưởi rồi vào học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, ngành hội họa năm từ 1931-1938. Thầy của ông là họa sĩ người Pháp, Inguimberty. Trong thời gian này ông đã khai phá con đường đưa sơn ta của mỹ nghệ truyền thống, sơn son thiếp vàng trở thành tranh mỹ thuật sơn mài là chất liệu hội họa bản sắc của Việt Nam. Ông qua đời ngày 26 tháng 6 năm 1993.
Một ký giả người Pháp viết về mỹ thuật Việt Nam đương thời đã nhận xét: ”Nguyễn Gia Trí có một giai đoạn ngắn dường như cố gắng làm cho sắc độ của con người, cây cối, thú vật, quần áo, phong cảnh, trong tranh ông đạt được sự chân thực hoàn hảo. Nhưng ông đã nhanh chóng từ bỏ nỗ lực ấy để chỉ chú tâm vào các phương tiện của sơn mài, nhằm nâng sơn mài lên trình độ của sơn dầu.”
Sơn mài khác hẳn sơn dầu ở chỗ mặt tranh bóng, phẳng gần như tuyệt đối. Không gian của nó lặn vào bên trong rất sâu, đó là tính âm của nó cùng với các màu cơ bản (vàng, đỏ son, đen) là các màu ngả về âm, màu của không gian cung đình chùa chiền ngày xưa. Và nhịp của nó là nhịp chậm, từng bước từng bước thầm hình thành từ từ qua từng công đoạn. Công đoạn làm vóc: bó vải, hom, mài xả, lót... cho tới phẳng. Công đoạn vẽ: vẽ, ủ, mài xả, phủ, mài bóng, đánh bóng... cho đến hoàn thành. Chính những đặc điểm ấy đã tạo ra những thách đố đối với những tác giả vẽ tranh sơn mài. Ngược hẳn với sơn dầu thuộc về tính dương đòi hỏi sự truyền cảm trực tiếp, bộc phát vào những nét, mảng, gồ ghề, tạo matiere, hay đường tút của bay, cọ...
Vào năm 1940, họa sĩ Nguyễn Gia Trí được đánh giá ông là người thành công nhất VN. Tác phẩm của ông được tính giá tấc vuông (1dm2) 1 tấc vuông giá bằng 1 lượng vàng và hầu như chỉ có dân Tây thượng lưu mới có khả năng mua tranh của ông. Họ đặt tranh ngay từ khi mới trông thấy phác thảo, hai vợ chồng công sứ Cresson xắn quần, nhấc váy lội nước vào làng Thịnh Hào để mua tranh ông. Họ gọi ông là Génie Asiatique (thiên tài Châu Á). Những tác phẩm tiêu biểu của ông như: Chợ Bờ, Bên Hồ Gươm, Chùa Thầy, Đèn Trung thu, Đêm Bồ tùng linh, Khỏa thân, Cảnh thiên thai (đây là bức tranh khỗ lớn được toàn quyền Đông Dương Decoux đặt làm năm 1943), tác phẩm: Thiếu nữ trong vườn (là tác phẩm lớn nhất, gồm 6 tấm ghép lại 12 mét vuông bán cho ông bà Drouin Giám đốc Sở Điện nước Miền Bắc Đông Dương).
Và một tác phẩm độc đáo của ông có đề tài Kitô Giáo là bức Giáng Sinh thực hiện năm 1941 do một phụ nữ quý phái người Pháp đặt tặng cho Dòng Đa Minh, bức tranh gồm 3 tấm ghép lại (có kích thước tổng cộng là 1,3m X 2,37m) điểm độc đáo của tác phẩm này là ông đã Việt hóa hoàn toàn quang cảnh và các nhân vật trong Kinh Thánh, ba vị Thiên Thần đứng trên mây là ba cô gái tân thời duyên dáng trong tà áo dài màu lam, lục và trắng, một trong ba cô gảy đàn tì bà. Thánh Giuse và Mẹ Maria là hai nguời nhà quê áo sồi, quần gụ. Ba người trong bóng tối góc bên phải đầy tính biểu hiện, ba trạng thái tinh thần của chúng sinh: Người thành kính hướng về Chúa Hài Đồng là kẻ có niềm tin; người thản nhiên nhìn ra ngoài là kẻ bàng quan; người nằm nghiêng gối đầu trên cánh tay say ngủ là kẻ còn chìm đắm trong u mê. Và thay cho máng cỏ, chuồng lừa, hang đá, ở đây là cái chuồng trâu với một con trâu trắng. Tác phẩm này đã bị lưu lạc cùng thời cuộc. Năm 1954, trước khi Hà Nội về tay chính phủ kháng chiến, tu viện Têrêsa đã đưa nó sang Dòng chính ở Lyon. Các vị tu sĩ ở tu viện Corbusier chắc là không hiểu giá trị của tấm tranh, nên để ở dưới sàn nhà nguyện, quay mặt ra sau làm bảng viết. Năm 1955 linh mục Pineau của Dòng Đa Minh được cử sang Sài Gòn, biết việc ấy đã xin đưa bức tranh trở lại VN. Đến cuối năm 1959 đầu 1960 mới được đưa về Sài Gòn, và từ đó nó nằm ở nhà nguyện Dòng Đaminh Mai Khôi đường Tú Xương, Q.3 cho đến nay. Linh mục Thiện Cẩm, Bề trên Dòng Đaminh cho biết, trước đây có một vị Khâm sứ Tòa Thánh Vatican ngỏ ý muốn mua tác phẩm độc đáo này, với giá của một căn biệt thự nhưng Nhà Dòng không bán.
Giai đoạn thứ hai của sự nghiệp họa sĩ Nguyễn Gia Trí gắn bó với Sài Gòn-TPHCM từ năm 1954-1993, song chủ yếu là 20 năm từ 1954-1975 là thời kỳ ông có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để sáng tác và hoàn thiện nghệ thuật sơn mài ở đỉnh cao. Những tác phẩm quan trọng nhất của ông sau năm 1954 là bộ lịch sử Việt Nam gồm các bức “Địa linh hoán tượng, Hai bà Trưng, Trận Bạch Đằng, Ba Vua (1960) và bộ tranh cho thư viện Quốc Gia gồm ba bức Hoài niệm xứ Bắc,Trừu Tượng, Múa dưới Trăng (1968-1969) Vườn Xuân (1970) và tác phẩm cuối cùng Vườn Xuân Trung Nam Bắc, thực hiện kéo dài trong nhiều năm. Tác phẩm này do bác sĩ Tín đặt hàng (người sản xuất dầu gió khuynh diệp nổi tiếng ở miền Nam) bức tranh 9 tấm, kích thước 2m X 5,4m nói lên tâm tư nguyện vọng của ông vào lúc cuối đời. Sau năm 1975 người đặt tranh đi định cư ở nước ngoài, trong điều kiện khó khăn về kinh tế ông vẫn quyết tâm hoàn thành tác phẩm. Đến năm 1990 thì Chủ tịch UBND TPHCM, ông Nguyễn Vĩnh Nghiệp quyết định mua tác phẩm này với giá 600 triệu đồng VN tương đương 100.000 Đôla, là một kỷ lục về giá tranh ở Việt Nam.
Họa sĩ cùng thời với ông là Tô Ngọc Vân nhận xét: “Sức truyền cảm ma quái của sơn ta, dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí thì những màu hồng nhạt biến hóa thành nhửng sắc nâu ngon thiệt là ngon, những vỏ trứng như đổi cả thể chất thành vật quí, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi, rung lên, rít lên, như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc. Chàng nghệ sĩ ấy yêu tấm sơn mài như yêu một người đàn bà. Lúc âu yếm bằng những nét vuốt mềm mại, lúc dữ dội bằng năm bảy nét quệt mạnh, đập tung, cào cấu. Trong những sắc màu ấy như ẩn như hiện một chút gì huyền ảo, đắm say nồng nàn, còn run rẩy trong bóng tối hòa với một sức sống còn bế tắc, một linh hồn kiên quyết, đam mê đang quằn quại vì muốn thoát nhanh ra ngoài ánh sáng.”
Thật vậy, dưới bàn tay phù thủy Nguyễn Gia Trí, vỏ trứng từ một vật cứng cũng trở thành mềm mại, vì tạo ra đủ sắc độ của màu xám, vàng, nâu, trắng. Lúc thì như thứ bình men rạng cổ kính, lúc toát lên trên nền đen như được soi rọi bằng những ánh đuốc đêm hoa đăng, lúc đông đặc như cẩm thạch, lúc kết tinh như kim cương, lúc mỏng mờ như cơn mưa phùn, lúc rờn rợn bóng tối mờ ảo trên tường rêu của Liêu trai chí dị.
Tác phẩm sơn mài của họa sĩ Nguyễn Gia Trí quả thật có nguồn gốc sâu xa ở quan niệm tâm linh, vì đối với ông sáng tạo nghệ thuật chỉ là phương tiện để tu tập, ông thường nói: “Tôi tìm tòi và sáng tạo với tất cả linh tính, không phải sáng tạo bằng mắt, bằng tay, mà gần như người mù sờ soạng, mò mẫm trong đêm tối để tìm cái đẹp. Như người mẹ mang thai, không thể bắt con mình là trai hay gái, đẹp hay xấu, mà cầu mong ở chính con người mình, ở chính phúc đức, và chính thể chất của mình sẽ sinh ra đứa con lành lặn, đẹp đẽ."
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, một đời tìm tòi sáng tạo đã đưa mỹ thuật sơn mài lên ngang hàng với hội họa hiện đại. Được minh chứng bằng những kiệt tác đi vào lòng người, và bất tử với thời gian, qua phong cách hòa quyện bản sắc dân tộc dân gian với trường phái sơn dầu hiện đại, bằng cái tâm vô cầu và bản chất dấn thân, phó thác cho nghệ thuật đến tận cùng, ông xứng đáng là một “Minh Sư” có công dẫn dắt chúng ta đến đại dương mênh mông của cái Đẹp.
Đọc thêm!

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

Lịch Sử Hội Họa Hiện Đại Và Hậu Hiện Đại Việt

WGPSG (11.10.2009) -- Hoạ sĩ Lê Hiếu đã tìm hiểu và có những nhận định của ông về Hội hoạ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại tại Việt Nam. Đây sẽ là một tài liệu hữu ích và thú vị cho những người yêu mến và quan tâm đến nền Hội hoạ và Mỹ thuật của quê hương Việt Nam thân yêu.

I. Hội hoạ Hiện Đại
Hội họa Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng hội hoạ trước đó?
Điểm khác biệt là ở quan niệm về năng khiếu. Năng khiếu là yếu tố cần thiết của người hoạ sĩ, nhưng trong Hội họa Hiện Đại, người ta khẳng định rằng: năng khiếu, một trong những yếu tố giúp cho hoạ sĩ có được những tác phẩm cuốn hút, lại là không cần thiết lắm! Bởi vì sản phẩm của hội hoạ không phải chỉ là những cái gì đẹp, không chỉ là để thỏa mãn một thị hiếu, mà cốt yếu nó còn đi tìm một sự đồng cảm và chia sẻ. Nói chung, nó phải truyền thông được một thông điệp với công thức:
Tác phẩm lớn = Tính sâu thẳm + tính phức tạp + tính nguyên sơ.
Có thể nói, khuynh hướng Hiện Đại này đã đi vào môi trường Hội hoạ của Việt Nam kể từ ngày triển lãm đầu tiên vào năm 1929 tại Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Cách đây 85 năm, ngày 7/10/1924, tại Hà Nội, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin ký sắc lệnh cho thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, với tên tiếng Pháp là École superieure des Beaux-Arts de L’Indochine. Người đảm nhiệm kiêm hiệu trưởng là họa sĩ người Pháp: Victor Tardieu.
Trường hoạt động trong thời gian 20 năm (1925-1945), đã trao bằng tốt nghiệp cho 128 sinh viên họa sĩ, trong đó có các ngôi sao sáng của nền mỹ thuật Việt Nam như: Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Nguyển Gia Trí, Bùi Xuân Phái, v.v...
Xin Click lên hình để coi các hình trong album này
Và cuộc triển lãm đầu tiên mang tính lịch sử ở VN thời bấy giờ, được khai mạc tại trường Mỹ Thuật Đông Dương, số 102 phố Reinach, Hà Nội, vào ngày thứ sáu 15/11/1929 (cách đây 80 năm), đã có tác động đáng kể đến đời sống và công chúng đương thời. Lúc ấy, tranh lụa và tranh sơn mài chưa ra đời. Vào thời điểm đó, tờ L’Avenir du Tonkin (Tương lai Bắc Kỳ) đã trang trọng chạy “tít” trên bìa 1: Một trường phái hội họa và điêu khắc mới “Trường phái Việt Nam”. Trong tờ báo đó, ký giả Yvonne Schultz viết: “Cái trường phái hội họa này, ngay bây giờ người ta có thể gọi là trường phái Việt Nam, sẽ làm giàu cho Viễn Đông bằng những tác phẩm thích ứng với sự nhạy cảm của người Việt Nam thế kỷ 20. Về mặt lịch sử, quá trình phát triển của hội họa sơn dầu VN khác xa các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản. Các họa sĩ VN quả thực đã tiếp nhận các kỹ thuật hội họa phương Tây, nhất là kỹ thuật sơn dầu trực tiếp qua các họa sĩ Pháp (Victor Tardieu và Joseph Inguimberty) như một phương tiện có tính phổ quát, để xây dựng cho mình một nền hội họa ĐẦU TIÊN mang tính chất quốc gia, chuyên nghiệp, có tác giả, một nền hội họa bác học theo tinh thần của thời đại mới, mà vẫn đảm bảo bám rễ sâu vào nguồn mạch văn hóa mỹ thuật truyền thống”.
A. Giai đoạn đầu (1925-1945)
Vào thời kỳ Đông Dương, nền hội họa sơn dầu Việt Nam đã ít nhiều có những sắc thái riêng biệt, với những nội dung hết sức đặc biệt, được phản ánh qua những tác phẩm có phong độ bậc thầy như “Thiếu Nữ bên Hoa Huệ” của Tô Ngọc Vân, “Chơi Ô Ăn Quan” của Nguyễn Phan Chánh, “Vườn Xuân Bắc Nam” của Nguyễn Gia Trí vv…Các họa sĩ VN đã đi từ trường phái Cổ điển, qua Hiện thực, và phần nào tiếp cận các trường phái Hiện Đại như: Ấn tượng...
B. Giai đoạn từ 1945-1975
Miền Bắc bước vào thời kỳ kháng chiến, nền hội họa sơn dầu VN đã chuyển hóa các thành tựu của thời kỳ trước sang khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số còn lại di cư vào Nam, sát nhập với trường Cao Đăng Mỹ Thuật Gia Định, nay là trường Đại Học Mỹ Thuật Tp HCM, số 5 Phan Đăng Lưu, Q Bình Thạnh, Tp. HCM.
Thời kỳ này ở miền Nam, tức Sài Gòn cũ, các họa sĩ nổi tiếng các nơi tổ chức triển lãm liên tục, ở Ty Văn Hóa (đường Tự Do), ở Hội Việt Mỹ, với các họa sĩ cổ thụ như Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Nguyễn Siên, Tạ Tỵ, Hiếu Đệ, Nguyễn Thanh Thu. Đến thập niên 60 thành lập thêm nhóm họa sĩ trẻ Sài Gòn, gồm có các họa sĩ Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Hồ Hữu Thủ,Trịnh Cung, vv...
Đây là thời gian cực thịnh của các trường phái Hiện Đại: Ấn tượng, Lập thể, Siêu thực, Trừu tượng v.v... Ở thời vàng son này, các họa sĩ rất được công chúng trọng thị và mến yêu, nhất là tầng lớp trung lưu trí thức, bác sĩ, kỹ sư, công chức, giáo sư,vv…Sau mỗi tháng lãnh lương, họ thường trích ra một khoản tiền để sưu tập tranh, tượng.
Hội hoạ Hiện Đại và Hậu Hiện Đại VN
"Trừu tượng", sơn dầu, Tạ TỵTranh hậu hiện đại của Lê Hiếu Tranh hậu hiện đại của Lê Hiếu
C. Giai đoạn từ 1975-1990
Sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, Sài Gòn-Tp HCM có lực lượng họa sĩ xuất thân từ các nguồn đào tạo hết sức khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp, Mỹ, Ý, Anh, Nhật…
Riêng miền Nam đang liên tục tiến hành cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới mà dân Sài Gòn và giới văn nghệ sĩ tại chỗ còn quá xa lạ. Vì thế mà rất nhiều người cầm cọ thời bấy giờ, bị đi cải tạo, hoặc bỏ vẽ. Số còn lại trở nên rụt rè trước hoàn cảnh xã hội thay đổi. Trong suốt thời gian này hầu như không có cuộc triển lãm tranh tượng của cá nhân, hay tổ chức tư nhân nào, mà chỉ có những cuộc triển lãm chung do Hội Mỹ thuật Thành Phố, hoặc Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức cho các họa sĩ vẽ theo chủ đề, theo định kỳ mỗi năm, hay 5 năm một lần.
II. Hội họa Hậu Hiện Đại
Giai đoạn đổi mới (1990-2009)
Bắt đầu từ cuộc trao đổi văn hóa Việt Mỹ theo chương trình cuộc chiến nhìn từ hai phía của Hiệp Hội Indochina Arts Partnership do họa sĩ người Mỹ David Thomas khởi xướng. Các họa sĩ Mỹ, và hoạ sĩ các nước vào Việt Nam triển lãm. Ngược lại, các họa sĩ Việt Nam sang Mỹ và các nước tiên tiến trên thế giới triển lãm giao lưu.
Thời kỳ này là thời kinh tế thị trường mở cửa, Việt Nam gia nhập WTO, giới họa sĩ tiếp cận nhiều thông tin, nhất là giới họa sĩ trẻ, đươc dịp khẳng định mình, qua các trường phái Hậu Hiện Đại như Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt vv... Cả ba miền đất nước: Huế, Sài Gòn, Hà Nội, bùng nổ triển lãm tranh, tượng, cá nhân, nhóm, câu lạc bộ, Tòa soạn báo chí, Chùa, Nhà Thờ, Hội Mỹ Thuật các nơi… Các galleries mọc lên như nấm, nhưng chủ yếu là để kinh doanh tranh, sao chép của các tác giả nổi tiếng nước ngoài. Tranh sáng tác ít đươc công chúng hưởng ứng, nhất là tranh sáng tác theo chủ đề Tôn Giáo.
Như vậy từ năm 1990, trong môi trường Hội hoạ Việt Nam đã xuất hiện trường phái Hậu Hiện Đại (Pop Art, Body Art, Trình Diễn, Sắp Đặt, v.v...) Nhưng trường phái Hậu Hiện Đại là gì? Có gì khác biệt với những khuynh hướng Hội họa Hiện Đại trước nó?
Khoa học, kỹ thuật hiện đại ngày nay đẩy con người lên đỉnh cao chói lọi. Nhưng những con người thành đạt trong thời đại này lại khó mở lòng ra hơn xưa. Họ đã trải qua thời kỳ đau khổ, họ không còn niềm tin vào cuộc sống và xã hội đương thời, và vì vậy họ trở nên cảnh giác. Cái đẹp của hội họa, có lẽ vì vậy mà khó tiếp thu hơn.
Chính giai cấp vừa mới giàu sang và thành đạt đó đã bẻ vỡ thế giới nhận thức và cảm xúc ra nhiều mặt, nhiều thời điểm, rồi sắp xếp lại theo cảm quan của cá nhân với công thức:
Tác phẩm lớn = Tính sâu thẳm + tính tự do + tính cá nhân.
Như vậy Hội họa Hiện đại và Hội họa Hậu Hiện đại giống nhau ở chỗ đều nhấn mạnh đến tính sâu thẳm, và khác nhau ờ chỗ:
- Hội họa Hiện đại nhấn mạnh hơn về: tính phức tạp và tính nguyên sơ
- Hội họa Hậu Hiện đại lại nhấn mạnh đặc biệt về: tính tự do và tính cá nhân.
Điểm đặc biệt khác của Hội hoạ Hậu Hiện đại là: người xem "cùng sáng tác" với tác giả. Khi ngắm nghía bức tranh, vào từng thời điểm khác nhau, họ khám phá ra những góc cạnh mới, những ý nghĩa mới, và đặt tên mới cho bức tranh. Bức tranh là một tác phẩm bỏ ngỏ...
III. Nhận định
Chưa bao giờ nền nghệ thuật thế giới đứng trước những thách thức đáng kể như ngày hôm nay, bởi lẽ con người đã mất niềm tin vào cuộc sống, mất định hướng, nên dễ trở nên tha hóa. Từ đó, tư duy về cái Đẹp phát sinh nhiều quan niệm mới, nhiều khi đi ngược lại với nền mỹ học cổ truyền. Mà tự bản chất, khả năng con người thì chưa đủ sức chân nhận giá trị. Ngôn ngữ và tư tưởng giữa các thế hệ có khoảng cách ngày càng xa, khiến cho sự kết nối, chia sẻ, yêu thương trở nên cực kỳ khó khăn. Những người trẻ ở các nước đang phát triển lại càng thêm bối rối, mất phương hướng.
Hiện nay, bóng đêm của trường phái Hậu Hiện Đại ngày càng bao trùm khăp nơi trên thế giới. Không giống như khoa học, kỹ thuật, luôn luôn có mẫu số chung, trong môi trường hội họa, không ai giống ai, mỗi người mỗi phong cách. Hiện Đại hay Hậu Hiện Đai của mỗi người đều xuất phát tự bên trong nội tâm sâu thẳm, và đều thể hiện một mỹ cảm nhất định về cái Đẹp.Thêm vào đó, lối giáo dục ngày nay là lối giáo duc trực quan: làm ngay, thấy ngay, cộng với sự nhiễu loạn thông tin từ internet, cũng là một phần cản trở sự tiếp thu theo kiểu cũ của trường phái Hiện Đại.
Hậu Hiện Đại đã bẻ vỡ thế giới nhận thức và cảm xúc ra nhiều mặt, và đưa đến hai kết quả khác nhau: tích cực và tiêu cực:
- Ở mặt tiêu cực, các họa sĩ mong đợi một không gian để thỏa mãn cái Tôi, nhiều hơn là đi tìm những giá trị mới hoàn thiện hơn. Bởi họ đi từ một nền tảng nổi loạn và hoang mang, dẫn đến kết quả họ không biết họ là ai! “Tôi là ai, tôi là ai, mà còn trần gian thế? Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này?” (ca khúc Trịnh Công Sơn)
- Ở mặt tích cực, có những họa sĩ đặt niềm tin vào tình yêu thương của Thiên Chúa, lúc đó tâm tưởng của họ có sự bình an. Khởi đầu, thế giới nhận thức của họ bị bẻ vỡ, nhưng đến khi sắp đặt lại, họ đã kịp dẫn đưa cái Tôi hoang mang của họ bước theo tiếng nói của yêu thương.
Sự thực là khi tiến bước trên con đường mỹ thuật, người hoạ sĩ từng bước rũ bỏ những e dè, ngăn cản, mặc cảm, để bộc lộ chính mình, và trở thành chính mình trong khi vẽ tranh. Càng biết nhiều, hiểu nhiều, tiếp xúc nhiều, họ càng thông cảm cho người khác, càng lớn lên, để biết pha màu theo cung cách “cầm lấy, tạ ơn, bẻ ra và trao ban”. Lúc đó họ không cần cố gắng chứng minh mình đang theo trường phái Hiện Đại hay Hậu Hiện Đại, không cần đẩy cá tính của mình lên đến mức dị biệt, cứ để tự nó “hữu xạ tự thiên hương.”
Đọc thêm!

Thứ Hai, 28 tháng 9, 2009

Cảm Tưởng Dấu Ấn Đức Tin II

Đức tin mà không hành động là đức tin chết. Nghệ thuật mà không đi vào lòng người là phản nghệ thuật, phi nghệ thuật. Và một khi đức tin đã chết thì làm gì có dấu ấn nào để lại! Vậy làm thế nào để mối liên lạc giữa đức tin và nghệ thuật được phục sinh?

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã mời hơn 500 nghệ sĩ đến họp với ngài ngay dưới những bức bích họa lừng danh của Michelangelo trong nguyện đường Sixtine. Tổng Giám mục Gianfranco Ravasi, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Văn hóa, cho biết cuộc họp này là một trong nhiều sáng kiến nhằm bắc một nhịp cầu nối lại khoảng trống ngăn cách giữa tâm linh và nghệ thuật, đã xảy ra trong những thế kỷ trước. Và tại cuộc họp báo ở Vatican ngày 10/09/2009, Tổng Giám mục Ravasi nói rằng, sự ngăn cách chết chóc giữa hai bên có thể thấy được rõ ràng nơi nghệ thuật và kiến trúc của nhiều ngôi nhà thờ mới, mà theo ngài thì không trình bày được vẻ đẹp mà trái lại còn xấu nữa. Giáo Hội hy vọng cuộc đối thoại có thể giúp cho các nghệ sĩ tìm lại được “tính siêu việt”, đã gợi hứng cho nhà họa sĩ và điêu khắc Michelangelo ở thế kỷ XVI và các nghệ nhân cùng thời với ông, đã tạo thành những công trình nghệ thuật tôn giáo lẫy lừng trải qua bao nhiêu thế kỷ. Mục đích cuộc họp nhằm tiếp nối những nỗ lực lặp lại mối quan hệ với giới nghệ sĩ đương đại, giống như các vị Giáo Hoàng trước đây từng làm.
Gần bốn mươi năm trước, năm 1971, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã có buổi gặp gỡ tương tự như thế với các nghệ sĩ tại Nguyện đường Sixtine, và mấy năm sau đã khai trương bộ sưu tập Nghệ thuật Tôn giáo Thời Hiện đại trong khuôn viên bảo tàng Vatican.
Rồi cách đây mười năm, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã viết bức thư gửi các nghệ sĩ: “Hỡi tất cả các nghệ sĩ trên thế giới, mọi nẻo đường khác nhau quý vị đang đi đều dẫn tới đại dương mênh mông của cái đẹp, nơi đó ngạc nhiên sẽ trở thành ngỡ ngàng, hoan hỉ và sướng vui khôn tả.” Ngài đã ngợi khen công trình của họ và thúc giục họ cộng tác nhiều hơn giữa Giáo Hội và giới làm nghệ thuật.
Vatican là một quốc gia văn minh tiến bộ, đã từng có những hoạt động nghệ thuật tuyệt vời, vậy mà còn tỏ ra lo lắng như thế, lo có cuộc họp như là một trong nhiều sáng kiến nhằm bắc một nhịp cầu nối lại khoảng trống ngăn cách giữa tâm linh và nghệ thuật, đã xảy ra trong những thế kỷ trước... Còn đất nước Việt Nam chúng ta thì sao? Giáo Hội Việt Nam ta thì sao? Vâng, nơi đây, người dân lao động cật lực, chỉ mong kiếm được ngày hai bữa nuôi thân đã là tạ ơn Chúa rồi, nói chi đến chuyện làm nghệ thuật, quả là điều không tưởng?! Người ta thường nói như thế...
Cũng thế, riêng các vị linh mục và tu sĩ thì hình như thường không được đào tạo hay phát triển nhiều về Mỹ thuật. Mỹ thuật có vẻ là vùng cấm đối với nhiều vị chủ chăn. Cha Nguyễn Văn Trinh kể chuyện thời xưa lúc còn đi du học ở Đức/Bỉ, cha có viết thư xin Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình học Triết học về Mỹ thuật, Đức Tổng trả lời: “Tôi gởi anh đi du học để học môn Mỹ thuật à?!” Hẳn là với sự sáng suốt của một chủ chăn, Đức Tổng Bình thấy có nhiều môn cần cấp bách để học hơn là Mỹ thuật. Nhưng có lẽ cũng chính vì thế mà sau 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam thì các chức sắc, các chủ chăn của Việt Nam luôn có một câu: “Đối với mỹ thuật, chúng tôi là người ‘ngoại đạo’.” Đã là ‘ngoại đạo’ thì các ngài vẫn tin là có cái đẹp, nhưng trong hành động, rất nhiều khi đã không đạt tới cái đẹp, không vì cái đẹp. Mà đức tin không hành động là đức tin chết... Đức Tổng Giám mục Ravasi đã từng nói về một sự ngăn cách chết chóc giữa hai bên: đức tin và nghệ thuật...
Nhưng theo qui luật âm dương của Tạo hóa, trong âm luôn có dương, và ngược lại, trong dương luôn có âm. Trong sự chết luôn có mầm sống. Một trong những mầm sống đó là “Triển lãm Dấu Ấn Đức Tin lần II- một cuộc triển lãm lịch sử ở Việt Nam” theo lời Đức Hồng y Gioan Baotixita Tổng Giám mục TP.HCM đã ghi trong sổ cảm tưởng ngày khai mạc hội thảo kỷ niệm 350 năm Thành lập hai Giáo phận Đàng trong và Đàng ngoài. Ủy ban Văn hóa của Hội Đồng Giám mục Việt Nam, do Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống làm chủ tịch, đã đứng ra chỉ đạo và tổ chức cuộc triển lãm lịch sử này vào ngày 09.09.2009 tại Trung tâm Văn hóa Công giáo Việt Nam, số 6 Tôn Đức Thắng, Q.1, TP.HCM.
Tạ ơn Chúa, với sự tham gia của 62 họa sĩ, điêu khắc gia trong và ngoài công giáo, cùng với những chất liệu phong phú như sơn dầu, sơn mài, tranh lụa, đồng, gỗ, poliv…của nhiều thế hệ họa sĩ Việt Nam, cuộc triển lãm đã góp phần rút ngắn đôi chút khoảng cách giữa tâm linh tôn giáo và nghệ thuật so với nhiều thập niên trước...
Đọc thêm!

Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2009

Các Tác Phẩm Hội Họa Và Điêu Khắc Trong Triển Lãm "Dấu Ấn Đức Tin II"


"Thánh gia" của Bùi Hải SơnCuộc triển lãm “Dấu ấn đức tin II” do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tổ chức nhân dịp kỷ niệm 350 năm ngày thành lập hai giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài khai mạc vào lúc 16:00 ngày 9-9-2009 tại Trung Tâm Văn Hóa Công Giáo Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh.

Tham gia triển lãm lần này có khoảng 200 tác phẩm của 62 họa sĩ, điêu khắc gia từ khắp nơi với nhiều đề tài, thể loại sáng tác nhằm tôn vinh tính Thiện Mỹ, mà tính Thiện Mỹ có lẽ cũng là một trong những lý do để Đức Giêsu xuống thế làm người hầu cứu chuộc: “sẵn sàng chấp nhận cái chết, để rồi qua sự phục sinh của Người, Người chứng tỏ rằng Thiên Chúa và tình thương của Người không hề chịu thua cái chết…” (John Bowker, 2003).
Các tác phẩm hội họa và điêu khắc được trưng bày tại đây chủ yếu là tranh, tượng, phù điêu, bao gồm tranh sơn dầu, tranh lụa, tranh chất liệu tổng hợp, dán giấy và các pho tượng, phù điêu bằng gỗ, composite, đồng, đất nung. Các tác phẩm đã cho thấy sự đa dạng và phong phú về đề tài, thể loại sáng tác như tranh trừu tượng, phong cảnh, hiện thực hoặc tranh, tượng, phù điêu chân dung diễn đạt niềm tin, tình yêu thương, sự kính phục, đức hy sinh và lòng biết ơn của con người được sống bình yên trong tình yêu Chúa.
Trong các bức tranh sơn dầu, tác phẩm “Vì yêu” (60x69cm) của Lương Văn Duy, gam màu lạnh và tối, diễn tả chân dung Chúa Giêsu đang ngẩng mặt lên, đầu tựa vào thập tự giá, vòng gai nhọn quanh đầu.
“Tử nạn” (150x150cm) của Bá Văn thể hiện rất sống động hình ảnh Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá với gam màu nóng: hai màu chính là màu đỏ trên nền tranh màu vàng. Khuôn mặt của Người, với vòng gai tựa như ánh hào quang trên đầu. Hai bên mặt là hình ảnh đối lập giữa sự sung sướng, vui vẻ và sự đau khổ, khốn cùng của loài người.
“Á thánh Têrêsa Calcuta 2” của Vũ Lưu Xuân thể hiện nét khắc khổ, lo âu trên khuôn mặt vị nữ thánh, với cậu bé nằm gọn trong vòng tay bà. Nền tranh màu đỏ cam pha màu tối như màu lửa khói.
“Thánh Phaolô” và “Thánh Phêrô” (120x 80cm, 2009) của Lê Hiếu là hai tác phẩm thể hiện chân dung của hai vị Tông đồ tử đạo. Nền tranh màu xám trắng pha nâu thể hiện sự tận cùng của sa mạc. Hình ảnh một người bị ngã thể hiện bước ngoặt trong cuộc đời của thánh Phaolô: trở về theo Thầy chí thánh Giêsu. Hình ảnh Thánh Phêrô cầm chìa khóa trong vầng sáng biểu trưng cho chìa khóa nước Trời mà Đức Giêsu muốn trao cho ngài. Hai trong số các tác phẩm khác của tác giả là “Chân dung Đức Giám mục Bùi Văn Đọc” và “Chân dung Đức Giám mục Vũ Duy Thống”.
“Niềm tin” (100x60cm) của Quốc Thành, trong gam màu nóng với sắc đỏ cam trên nền tranh xanh lục, diễn tả hình ảnh Đức Mẹ Maria ẩn trong vòng xoáy của nhiều ngọn lửa nhỏ. Hai tay Người nâng niu giọt nước mắt lớn với một sinh linh bên trong,
“Tín hữu K’Ho” (60x80cm) của Minh Hưng là hình ảnh bà cụ người dân tộc ngồi cầm thánh giá với chuỗi Mân Côi trên tay, ánh mắt tin yêu hướng về ánh hào quang từ Thánh giá. Thánh giá biểu trưng cho tình yêu của Chúa qua sự chết để chịu tội thay cho thế gian. Thánh giá không người có lẽ muốn nói Người đã trỗi từ cõi chết.
Các tác phẩm của "Dấu ấn đức tin"
"Tử nạn" của Bá Văn “Á thánh Têrêsa Calcuta 2” của Vũ Lưu Xuân"Thánh Phaolô" của Lê Hiếu
Một số tranh lụa của Phụng Hoàng như “Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong vườn”, “Đức Mẹ và Chúa cầu nguyện” diễn tả Đức Mẹ và Chúa với phong tục tập quán Việt Nam. Sự mềm mại, nhẹ nhàng của người và cảnh vật xung quanh tạo nên vẻ tươi mát, gần gũi, quen thuộc với mọi người.
Các pho tượng, phù điêu đã tạo được ấn tượng lớn trong không gian trưng bày triển lãm. Pho tượng composite dán bạc “Anrê Phú Yên” (cao: 250cm, 2006) của Bùi Hải Sơn đặt trang trọng giữa phòng trưng bày là hình ảnh của vị thánh tử đạo đầu tiên ở Việt Nam (1625 – 1644). Pho tượng chàng trai trẻ trong trang phục áo dài khăn đống đứng thẳng trên bệ, tay phải ôm quyển sách trước ngực, tay trái giơ cao thánh giá, sợi dây thừng quấn chân và chiếc gông dưới chân. Một tác phẩm khác của tác giả là phù điêu composite “Thánh gia” (cao: 350cm, 2008) diễn tả gia đình thánh gồm thánh Giuse đứng thẳng, hai tay buông xuống, Mẹ Maria ngồi ôm Chúa Giêsu đang giang hai cánh tay tựa vào người thánh Giuse.
Các pho tượng, phù điêu bằng gỗ của các tác giả khác thể hiện hình ảnh Đức Mẹ Maria, thánh Giuse bế Chúa Hài Đồng, hoặc thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giêsu được đục đẽo dựa theo hình dáng sẵn có của thân cây, một đặc điểm độc đáo của nghệ thuật điêu khắc gỗ ở Sài Gòn trước đây. Tượng đồng “Hót” của Trần Việt Hưng thể hiện hình ảnh chồng người, hai cánh tay dang rộng tạo hình cây thánh giá (Marguerite, 2001), (Mai Thanh Hải, 2002), (John Bowker, 2003).
Cuộc triển lãm “Dấu Ấn Đức Tin II” là một cuộc triển lãm đặc biệt, ở đó mỗi tác phẩm thể hiện tài năng và thế giới nội tâm của từng tác giả, nhưng giữa họ đều có cùng niềm tin và tình yêu dành cho Thiên Chúa. Những sắc màu, đường nét, mảng khối, nhịp điệu trên tác phẩm giúp người xem cảm nhận được ý nghĩa sâu xa mà tác giả muốn gởi gắm bằng cả công sức và tâm hồn của mình. Có lẽ vì thế mà cuộc triển lãm này đã thực sự tạo nên dấu ấn trong lòng người thưởng ngoạn.

                                                                                       TS. Lâm Quang Thùy Nhiên
Đọc thêm!